Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2007

Cái Ô - tô

Lúc tôi với Mi-ska còn rất nhỏ, chúng tôi chỉ muốn được đi xe ô tô. Thế mà chẳng làm sao thực hiện được. Đã bao nhiêu lần chúng tôi hỏi xin các chú lái xe, nhưng không ai muốn chở chúng tôi đi cả. Một lần đang chơi trong sân, chúng tôi thấy một chiếc ô tô dừng lại trên đường, ngay cạnh cổng sân nhà chúng tôi. Chú lái xe bước xuống, rồi đi đâu đó không biết. Chúng tôi mon men đến gần, tôi bảo:

- Đây là xe “Von-ga”.

- Không phải, đây là “Mát-xcơ-vich”

- Cậu biết nhiều quá nhỉ, tôi nói.

- Tất nhiên, “Mát-xcơ-vich”, Mi-ska nói. Nhìn xem này, cái mũ này đẹp đấy chứ.

- Cái gì? Tôi nói, mũ à? Bọn con gái mới có “cái mũ” như thế. Còn xe thì là “mui”. Cậu thấy không – khoang xe tuyệt quá.

Mi-ska nhìn và nói:

-ừ, cái bụng thế này đúng là “Mát-xcơ-vich”.

- Có bụng cậu thì có. Xe ô tô chẳng có cái bụng nào cả.

- Thì chính cậu bảo là “bụng” còn gì.

- “Khoang”, tớ nói như vậy. Chứ không phải là “bụng”. Trời ơi, cái cậu này, đã không biết lại hay nói.

Mi –ska lại gần phía sau xe, nó nói:

- Chẳng lẽ xe “Von-ga” lại có giảm chấn? Chỉ “Mát-xcơ-vich” mới có thôi.

- “Giảm chấn” là ở các toa xe lửa. Còn ở ô tô, cái này là thanh bảo vệ, quen gọi là pa-ra-sốc. Cả xe “Von-ga” và xe “Mát-xcơ-vich” đều có.

Mi-ska sờ tay vào thanh bảo vệ và nói:

- Có thể ngồi lên đây mà đi cũng được đấy.

- Không được đâu. Tôi bảo Mi-ska.

Còn nó thì bảo tôi:

- Nào, đừng có sợ thế. Ngồi lên đi một đoạn, rồi chúng mình nhảy xuống.

Chú lái xe quay lại, ngồi vào trong xe. Mi-ska đi đến, ngồi lên thanh bảo vệ, thì thầm:

- Ngồi lên nào, ngồi lên nào.

Tôi bảo:

- Không được.

Mi-ska dục:

- Nào, nhanh lên ! Xì, cậu đúng là thằng hèn.

Tôi chạy lại, ngồi bám vào bên cạnh. Xe chuyển bánh và tăng ga lao đi.

Mi-ska hoảng hồn:

- Tớ nhẩy đây! Tớ nhẩy đây!

- Đừng nhẩy, cậu sẽ bị thương đấy.

Nó khẳng định:

- Tớ nhẩy! Tớ nhẩy!

Và nó đã thò một chân xuống. Tôi liếc nhìn phía sau, một chiếc xe khác đang bám theo chúng tôi. Tôi hét lên:

- Đừng liều, Mi-ska, nhìn kìa, cái xe kia chẹt cậu mất.

Mọi người đi trên vỉa hè dừng cả lại nhìn chúng tôi. Chú công an ở ngã tư đường huýt còi. Mi-ska hoảng quá nhảy xuống, nhưng hai tay vẫn bám chắt vào thanh bảo vệ. Tôi túm lấy cổ áo kéo lên. Xe ô tô dừng lại rồi mà tôi vẫn cố kéo. Cuối cùng thì Mi-ska cũng ngồi được lên thanh bảo vệ. Mọi người vây kín chung quanh. Tôi kêu: “Giữ chặt vào, ngốc quá, chặt nữa vào”, làm mọi người không nhịn được cười. Tôi nhận ra là xe đã dừng, tụt xuống. Quá sợ hãi, Mi-ska cứ ngồi ngây. Tôi phải dùng sức kéo nó ra khỏi thanh bảo vệ. Chú công an chạy đến ghi số xe. Chú lái xe bước ra. Mọi người đổ dồn vào chú:

- Anh không thấy có chuyện gì đang xẩy ra ở phía sau sao?

Họ quên mất chúng tôi. Tôi thì thầm bảo Mi-ska:

- Mình đi nào.

Chuồn ra khỏi đám đông, chúng tôi chạy về phía ngã tư. Về tới nhà, chúng tôi mệt đứt cả hơi. Hai đầu gối Mi-ska tứa máu. ống quần rách bươm. Đó là do cậu ta đã có một chuyến đi bằng bụng trên đường nhựa. Thế nào nó cũng bị mẹ nó cho một trận ra trò.

Lát sau, Mi-ska bảo:

- Cái quần chẳng là gì, có thể vá lại. Đầu gối sẽ tự lành. Tớ chỉ lo cho chú lái xe. Phen này vì chúng mình, có khi lĩnh đủ. Cậu có thấy chú công an ghi số xe không?

Tôi nói:

- Đúng ra bọn mình phải ở lại nói cho mọi người biết là chú lái xe không có lỗi.

- Hay bọn mình viết thư cho chú công an. Mi-ska nói:

Chúng tôi bắt đầu viết thư. Viết đi, viết lại, đã hỏng gần hai chục tờ giấy. Cuối cùng thì cũng viết xong:

“Đồng chí công an quý mến! Đồng chí ghi số xe là không đúng. Có nghĩa là đồng chí ghi số xe là đúng, chỉ có điều không đúng là chú lái xe có lỗi. Chú ấy không có lỗi. Người có lỗi là cháu với Mi-ska. Chúng cháu đã bám vào mà chú ấy không biết. Chú lái xe tốt và chạy xe đúng”

Trên phong bì chúng tôi viết:

“Góc phố Goóc –ki và Ban-sai-a Gru-din-xcai-a. Cho chú công an nhận” Chúng tôi dán thư và bỏ vào thùng. Chắc thế nào thư cũng tới nơi.

Trên núi

Tụi trẻ hì hục làm cả ngày. Chúng say mê đắp một hòn núi tuyết trong sân. Chúng dùng xẻng xắn tuyết, hất về phía tường nhà kho, đắp thành một đống. Mãi gần giờ ăn trưa, hòn núi mới đắp xong. Chúng tưới nước lên hòn núi, rồi chạy tản về nhà ăn trưa.

- Ăn trưa đã, chúng nói, trong khi đó, hòn núi sẽ đông cứng lại. Ăn trưa xong, bọn mình sẽ mang giầy trượt tới, và sẽ cùng nhau trượt băng.

Cái cậu Kô-chka Tri-khốp ở căn hộ số sáu là đứa khôn lỏi. Nó không tham gia đắp núi, chỉ ngồi trong nhà nhìn qua cửa sổ xem mọi người làm gì. Các bạn gào lên gọi nó xuống, nó chỉ lắc đầu, khoát khoát tay sau cửa, làm như thể không làm sao ra được. Lúc thấy các bạn đã đi khỏi, nó vội vàng mặc áo quần, lắp bàn trượt và mò ngay xuống sân. Nó trượt giầy trượt băng trên đám tuyết, và “huỵch”. Nó chưa biết phải trượt thế nào cho đúng. Đến bên quả núi, nó trầm trổ.

- Ôi, một quả núi tuyết tuyệt vời đã được làm xong. Bây giờ ta sẽ trượt thử.

Vừa mới leo lên, đã ngã “huỵch” dán mũi xuống tuyết.

- ái chà, trơn ghê. Nó nói.

Nó đứng dậy, và một lần nữa “huỵch”. Có dễ phải đến mười lần như vậy. Nó không làm sao leo được lên núi.

“Làm sao đây?” Nó nghĩ.

Nghĩ mãi, nghĩ mãi, rồi cũng nghĩ ra; “Mình rắc cát lên và sẽ leo lên được”. Nó nhặt mảnh gỗ dán, và đến chỗ để dụng cụ dọn sân. ở đó có một thùng đựng cát.

Nó lấy cát trong thùng mang đến bên quả núi . Nó rắc cát lên phía trước rồi cứ thế leo lên cao dần. Và cuối cùng nó cũng leo lên đến đỉnh.

- Giờ thì ta có thể trượt được rồi!Nó nói.

Nó nhún chân, và một lần nữa lại “huỵch”, dán mũi xuống tuyết. Đôi giầy trượt băng không trượt trên cát được Kô-chka úp bụng trên tuyết, nói:

- Làm sao trượt trên cát được bây giờ?

Vừa lúc đó các bạn kéo tới! Chúng mình thấy quả núi đã bị rải toàn cát.

- Đứa nào mà phá hoại thế nhỉ? Chúng kêu ầm ỹ. Đứa nào đem cát rải lên núi, cậu có nhìn thấy không? Kô-chka.

- Không! Kô-chka nói, tớ không nhìn thấy ai. Đây là do tớ tự rải lên đấy, vì nó trơn quá, tớ không làm sao leo lên được.

- Ôi, cái cậu này, khôn ngoan nhỉ. Chẳng hiểu cậu nghĩ ra được cái gì. Bọn mình hì hục, hì hục làm, còn cậu thì đem cát đến phá. Bây giờ làm sao mà trượt được.

- Có thể lúc nào đó, Kô-chka nói, tuyết lại rơi, phủ hết cát, sẽ trượt được.

- Tuyết rơi à, ừ, có thể đấy, nhưng phải đợi hàng tuần lễ. Còn chúng tớ lại muốn trượt ngay.

- Đành vậy thôi, tớ biết rồi. Kô-chka nói.

- Cậu thì biết gì? Cậu chỉ biết làm gì để phá hỏng quả núi, còn làm sao để khắc phục, thì cậu chịu. Cầm lấy xẻng mau. Kô-chka tháo bàn trượt nhặt lấy cái xẻng.

- Hãy xúc tuyết rải lên cát, nhanh lên!

Kô-chka lấy xẻng hắt tuyết phủ lên cát, các bạn khác tưới nước vào.

- Bây giờ nó sẽ đông chắc lại, sau đó có thể trượt được.

Kô-chka cảm thấy làm việc thật thú vị. Nó cầm xẻng xẻ những bậc thang lên đến tận đỉnh. Nó nói:

- Để mọi người trèo lên đỉnh dễ dàng hơn, kẻo ngộ nhỡ, lại có ai đem cát đến chống trơn như tớ.

Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2007

NGÀY SINH NHẬT


Một mùa thu nữa lại qua đi.Ta ,chính ta lại thêm một tuổi,thời gian tựa thoi đưa như bóng câu qua cửa.vẫn chưa làm được gì cho ta và cho người.Vẫn phải mải mê vật lộn với đời thường,với bao âu lo hạnh phúc và suy tư ,với buồn vui khắc khoải,nhưng mặc đời thịnh suy ta vẫn là ta.Còn nhiều điều phải làm cho ta và cho mọi người:

Không làm những việc ác,
Gắng làm mọi điều lành ,
Giữ tâm ý tronh sạch.

Đó chính là tông chỉ,là điều tiên quyết cho ta và các con của ta.giữ tâm sao cho sáng,gần lành lánh dữ,chứa thiện,giúp đỡ mọi người...Ôi,bấy nhiêu đó thiết nghĩ cũng là đủ lưng vốn cho cả một đời người rồi.

Chủ Nhật, 23 tháng 9, 2007

Cái mũ biết đi

Chú mèo con Va-xca ngồi trên sàn nhà, cạnh cái tủ kệ, vồ nghịch mấy con ruồi. Trên mặt tủ kệ, ngay sát mép, có một chiếc mũ. Chú mèo chợt thấy một con ruồi đậu xuống cái mũ. Nó dương vuốt nhẩy lên vồ, làm chiếc mũ trượt trên mặt tủ kệ. Va-xca vồ trượt ngã lăn quay xuống sàn nhà vừa lúc chiếc mũ rơi theo. Hấp! Chiếc mũ chúp kín chú mèo.

Va-lô-đi-a Va-đích cũng đang ngồi trong phòng. Hai đưa mải tô màu cho những bức tranh, không nhìn thấy chú mèo bị chiếc mũ chụp kín ra sao. Chúng chỉ nghe tiếng vật gì đó rơi xuống sàn nhà.

Va-lô-đi-a quay nhìn lại; thấy chiếc mũ trên sàn nhà, cạnh chân tủ kệ. Nó đi đến, định nhặt cái mũ, chẳng hiểu sao, tự nhiên nó kêu toáng lên:

- ối- ối- ối! Và chạy vội sang một bên.

- Cậu làm sao thế? Va-đích hỏi

- Nó…nó…nó biết đi.

- Ai biết đi cơ?

- Cái… cái …cái mũ.

- Cái cậu này rõ là… chẳng nhẽ lại có cái mũ nào biết đi.

Va-đích lại gần, nhìn cái mũ. Đột nhiên cái mũ bò thẳng về phía nó. Nó hoảng:

- ối! Và nhẩy tót lên đi văng. Va-lô-đi-a nhẩy lên theo.

Chiếc mũ bò ra giữa phòng và dừng lại. Hai đứa nhìn chiếc mũ, run rẩy vì sợ. Vừa lúc đó, chiếc mũ xoay mình, tiến về phía đi văng.

- ối! ối? Hai đứa lại kêu lên, tụt khỏi đi văng, chạy ra ngoài phòng xuống bếp, đóng chặt cửa lại.

- Tớ …tớ đi đây, Va-lô-đi-a nói.

- Đi đâu?

- Tớ về nhà tớ.

- Sao vậy?

- Tớ… tớ sợ… sợ cái mũ. Đây là lần đầu tiên tớ nhìn thấy một cái mũ đi lại trong phòng.

- Mà có thể có người nào buộc dây vào rồi kéo nó chạy cũng nên.

- Thế thì cậu vào xem thử đi.

- Chúng mình cùng đi. Tớ cầm thanh cời lò này. Nếu nó xông lại phía chúng mình, tớ sẽ phang cho một cái.

- Chờ một tý. Tớ cũng cầm một thanh cờ lò.

- Nhưng nhà tớ không còn cái nào khác.

- A! Tớ cầm cái gậy trượt tuyết vậy.

Hai đứa, một cầm thanh cời lò, một nắm gậy trượt tuyết mở hé cửa nhìn vào phòng.

- Nó đâu rồi nhỉ? Va-đích hỏi.

- Kia kìa, ở gần chân bàn.

- Bây giờ tớ sẽ phang cho nó một thanh cời lò. Cứ đế nó lại gần chút nữa.

Nhưng chiếc mũ cứ đứng im gần chân bàn, không hề nhúc nhích.

- A ha! Nó sợ rồi. Hai đứa mừng rỡ. Nó không dám bò lại phía chúng mình.

- Để tớ doạ cho nó một trận, Va-đích nói. Nó gõ gõ thanh cời lò xuống sàn nhà, quát:

- Ê này, cái mũ.

Thế mà cái mũ cứ đứng im.

- Nào, chúng mình đi lấy khoai tây, dùng khoai tây nã pháo vào nó, Va-lô-đi-a đề nghị.

Hai đứa quay xuống bếp, nhặt khoai tây trong giỏ, bắt đầu ném vào chiếc mũ. Ném mãi, ném mãi, cuối cùng Va-đích cũng ném trúng.

- Meo! Có cái gì đó kêu lên.

Nhìn kìa, từ dưới cái mũ thòi ra một chiếc đuôi xám, rồi một cẳng chân. Sau đó thì rõ, chú mèo con chui ra.

- Va-xca! Hai đứa reo lên sung sướng.

- Có lẽ nó đang ngồi trên sàn, bị chiếc mũ trên tủ kệ rơi xuống chụp kín Va-lô-đi-a đoán.

Va-đích ôm con mèo lên vuốt ve.

- Va –xca, Va-xca đáng yêu, làm sao em lại bị chiếc mũ chụp kín thế, hả…?

Nhưng Va-xca không trả lời. Nó chỉ ngoan ngoãn gừ gừ trong cổ, rồi lim dim mắt vì ánh sáng.

Thứ Tư, 19 tháng 9, 2007

Chú công an

Trên đời này A-lích sợ các chú công an nhất. ở nhà, ai cũng đem công an ra doạ A-lích. Không nghe lời, người ta bảo nó:

- Này, chú công an đến bây giờ!

Nghịch ngợm một tý – lại bảo:

- Thế nào họ cũng đem mày nhốt vào đồn công an thôi.

Một lần A-lích lạc đường. Thậm chí nó cũng không biết sao lại như vậy. Nó ra sân chơi, sau đó chạy ra đường. Cứ vui chân chạy nhẩy, bỗng nó nhận ra mình ở một nơi xa lạ. Thế là, như những đứa trẻ khác, nó khóc. Mọi người vây quanh nó. Họ hỏi:

- Nhà cháu ở đâu?

Chính nó cũng không biết nhà mình ở đâu. Có người nói:

- Phải dắt nó đến công an. ở đó họ sẽ tìm ra địa chỉ nhà nó.

Còn A-lích, nghe nói đến công an, càng khóc to hơn. Vừa lúc đó, một chú công an đi đến. Chú cúi xuống sát A-lích, và hỏi:

- Cháu tên là gì?

A-lích ngẩng đầu, nhìn thấy chú công an, liền co cẳng chạy. Chỉ có điều nó không chạy xa được. Mọi người kịp tóm được, giữ nó lại, sợ nó chạy đâu mất.

Còn nó thì hét lên:

- Cháu không muốn vào công an, cháu không muốn, thà cháu cứ bị lạc mãi cũng được.

Mọi người bảo nó:

- Không nên bị lạc cháu ạ.

- Lạc mãi rồi cháu cũng tìm được nhà.

- Cứ thế thì ai giúp cháu tìm nhà được? Tự cháu chẳng tìm ra nhà mình đâu.

Chú công an lại đi đến gần. A-lích trông thấy, hét toáng lên, to đến nỗi chú công an đành phẩy tay, tránh xa và nấp sau cánh cổng. Mọi người nói:

- Nào, đừng kêu lên. Chú công an đi rồi. Cháu thấy không, làm gì có chú ấy ở đây.

- Không, chú ấy chưa đi. Đấy, chú ấy trốn sau cánh cổng, cháu thấy rồi.

Chú công an đứng sau cánh cổng nói ra:

- Mọi người hỏi họ tên họ của cháu. Tôi sẽ gọi điện về đồn nhờ giúp đỡ.

Một cô gái đến gần nói với A-lích:

- Cháu biết không, cô cũng có một anh bạn nhỏ. Cậu ấy không bao giờ bị lạc, vì cậu ấy biết họ tên của mình.

- Cháu cũng biết họ của mình- A-lích nói.

- à giỏi nhỉ, cháu thử nói xem nào.

- Ku-dơ-nét-sốp, còn tên là A-lếch-xan I-va-nô-vích.

- Ôi, cháu thật cừ khôi, cô ấy động viên, quả là cái gì cháu cũng biết thật.

Cô ấy lại chỗ chú công an, nói cho chú biết họ của A-lích. Chú công an gọi điện về đồn, lát sau chú đi tới, nói với mọi người.

- Nhà cháu bé cũng ở gần đây thôi, phố Pe-xtran-nai-a. Ai có thể dẫn cậu bé về nhà hộ tôi không? Chẳng hiểu vì sao thằng bé lại sợ tôi đến thế.

- Để tôi đưa về cho, cô lúc nãy hỏi tên họ A-lích nói.

Cô nắm tay A-lích dẫn về nhà. Chú công an đi phía sau. A-lích thấy yên tâm, không khóc nữa. Chỉ có điều nó luôn ngoái lại phía sau, nhìn chú công an và hỏi:

- Còn chú công an cứ theo sau làm gì?

Cháu đừng sợ chú ấy. Chú ấy là người giữ gìn trật tự. Cháu thấy không, cháu không muốn nói cho chú ấy biệt họ tên, nhưng cô đã cho chú ấy biết, chú ấy gọi điện về đồn. Người ta tìm ra ngay địa chỉ nhà cháu, vì ở đồn công an, tất cả họ tên địa chỉ đều có đăng ký rõ ràng.

Kể từ đó, A-lích không còn sợ các chú công an nữa. Nó biết các chú công an là người giữ gìn trật tự.

Thứ Bảy, 15 tháng 9, 2007

TRIỆU BÔNG HỒNG MỘT BẢN TÌNH CA BẤT HỦ

Chuyện kể rằng có chàng họa sĩ yêu thầm một cô ca sĩ. Cô gái có một điểm đặc biệt là rất yêu những bông hồng, yêu loài hoa tượng trưng cho tình yêu và hạnh phúc. Để làm đẹp lòng cô, chàng đã bán tất cả những gì mình có, nhà cửa, những bức tranh chàng yêu thích, để đổi lấy một triệu bông hoa hồng mang tặng cô và hy vọng..


Ảnh minh hoạ

Triệu bông hồng thắm (Миллион алых роз - tiếng Nga) là tên một ca khúc của Nghệ sĩ Nhân dân Liên Xô R.V. Pauls, phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của nhà thơ Nga A.A.Voznesenski.

Bài thơ và bài hát đều dựa theo một câu chuyện trong quyển thứ năm "Бросок на юг" (Về phương nam) thuộc tiểu thuyết "Повесть о жизни" (Tiểu thuyết cuộc đời) của nhà văn K.G.Paustovsky viết năm 1960 về chuyện tình của họa sĩ tự học người Gruzia Niko Pirosmani (1862-?) với nữ ca sĩ người Pháp Marguerite tại Tiphlis (tên gọi cũ của Tbilisi)


Ảnh minh hoạ

Bài thơ: Triệu bông hồng.

Миллион алых роз

Triệu bông hồng

Жил был художник один,
Домик имел и холсты,
Но он актрису любил,
Ту, что любила цветы.

Он тогда продал свой дом,
Продал картины и кров,
И на все деньги купил
Целое море цветов.

Миллион, миллион, миллион алых роз
Из окна , из окна, из окна видишь ты,
Кто влюблен, кто влюблен,
кто влюблен, и всерьез,
Свою жизнь для тебя превратит в цветы.

Утром ты встанешь у окна,
Может, сошла ты с ума?
Как продолжение сна,
Площадь цветами полна.

Похолодеет душа,
Что за богач здесь чудит?
А под окном, чуть дыша,
Бедный художник стоит.

Миллион, миллион, миллион алых роз
Из окна , из окна, из окна видишь ты,
Кто влюблен, кто влюблен,
кто влюблен, и всерьез,
Свою жизнь для тебя превратит в цветы.

Встреча была коротка,
В ночь ее поезд увез,
Но в её жизни была
Песня безумная роз.
Прожил художник один,
Много он бед перенес,
Но в его жизни была
Целая площадь цветов!

Миллион, миллион, миллион алых роз
Из окна , из окна, из окна видишь ты,
Кто влюблен, кто влюблен, кто
влюблен, и всерьез,
Свою жизнь для тебя превратит в цветы
Xưa một chàng hoạ sĩ
Có tranh và có nhà
Bỗng đem lòng yêu quý
Một nàng rất mê hoa

Và chiều lòng người đẹp
Để lấy tiền mua hoa
Chàng đã đem bán hết
Cả tranh và cả nhà

Chàng đã mua hàng triệu bông hồng
Ngoài cửa sổ cứ nhìn ta sẽ thấy
Rằng người yêu có yêu thật hay không
Khi bán nhà để mua hoa như vậy

Sáng hôm sau thức dậy
Nàng nhìn ra lặng người
Tưởng đang mơ vì thấy
Cả một rừng hoa tươi

Nàng ngạc nhiên, đang nghĩ
Ai đây chắc rất giàu
Thì thấy chàng hoạ sĩ
Đang tội nghiệp, cúi đầu

Họ gặp nhau chỉ vậy
Rồi đêm nàng đi xa
Nhưng đời nàng từ đấy
Có bài hát về hoa

Có chàng hoạ sĩ nọ
Vẫn vợ không, tiền không
Nhưng đời chàng từng có
Cả một triệu bông hồng

Chàng đã mua hàng triệu bông hồng
Ngoài cửa sổ cứ nhìn ta sẽ thấy
Rằng người yêu có yêu thật hay không
Khi bán nhà để mua hoa như vậy.

(Người dịch: (Không rõ))





Bài hát có tiết tấu nhanh, sôi động nhưng phảng phất nỗi buồn. Ca sĩ Alla Pugacheva thể hiện bài này rất thành công.


Ca sĩ Alla Pugacheva

Tại Nhật Bản, bài hát này nổi tiếng và phổ biến đến mức được người dân nơi đây đều cho là “biểu tượng của tình ca” và nó có mặt trong tất cả các phòng hát karaoke nơi đây.

Ở Việt Nam bài hát cũng rất được ưa chuộng, được nhiều người nghe và hát, và được đặt lời tiếng Việt.

Nghe bài hát Triệu bông hồng do ca sĩ Alla Pugacheva trình bày tại đây

GỬI TỚI ANH VINH BẢN TÌNH CA BẤT HỦ MÀ EM RẤT YÊU THÍCH ,ĐƯỢC TRÌNH BÀY BỞI NHIỀU CA SĨ KHÁC NHAU ,VỚI NHIỀU PHONG CÁCH BIỂU DIỄN KHÁC NHAU, NHƯNG ĐỀU TOÁT LÊN MỘT ĐIỀU LÀ TUYỆT VỜI. sin mời anh.



KÍNH TẶNG BÁC VINH Love is blue

Vài ngày trước dọn nhà, tôi tìm thấy một chiếc băng cát-sét cũ đầy bụi bẩn và những vết xước trên vỏ. Cái cảm giác đầu tiên khi tôi bỏ chiếc băng ra khỏi vỏ hộp, đặt vào bàn tay thật lạ, bồi hồi, trào dâng...

Chiếc băng ghi tên tôi bằng bút dạ, nét chữ cồ cộ của trẻ con mới tập viết. Thật không thể tin nổi tôi còn giữ được nó, thậm chí ngay lúc đó tôi cũng không thể nhớ ra nổi nội dung của nó là gì!

Tôi vớ lấy cái khăn lau, vừa lau vừa thổi phù phù lớp bụi, vừa run run. Tôi nhớ đã vô cùng bực tức khi tiếng đầu tiên phát ra từ cái đài cát-sét là tiếng rè rè. Cảm giác thất vọng như vừa tìm thấy một kỉ niệm, để rồi chưa cảm nhận được gì thì nó đã vụt biến mất... Nhưng khi tiếng nhạc đầu tiên cất lên sau đó, vẫn hơi rè rè nhưng mang theo cái gì đó quen lắm, tôi như quên đi tất cả...


Đó là bản hòa tấu Love is blue mà tôi nhận ra là của Paul Mauriat! Tiếng piano và ghi-ta cổ điển réo rắt, nhẹ nhàng, mang theo một cảm giác rất quen, quen lắm. Bỗng những hình ảnh hồi thơ ấu của tôi ùa về. Hồi nhỏ tôi rất thích nghe nhạc, đặc biệt là nhạc hòa tấu của Paul Mauriat. Những bản tình ca nổi tiếng Love story, Delilah, được thổi vào một luồng khí cổ điển thật buồn và sâu lắng...


Nghệ sĩ Paul Mauriat

Khi lớn lên tôi không còn nghe nhạc của Paul nữa. Lúc đầu tôi thích nghe những bản Rock’n’roll của The Beattles, những bản ballad của Scorpions, rồi tới những bản Thrash mạnh mẽ của Metallica, rồi quay cuồng trong chất Nu mới lạ của Linkin Park và Slipknot, thậm chí say cả thế giới âm u của Black.

Tôi dường như quên hẳn những bản hoà tấu ngày nào, chìm đắm trong thứ âm thanh ồn ã của Metal. Và rồi bây giờ ngồi đây. Bản nhạc vẫn du dương nhẹ nhàng như dòng nước chảy róc rách, vẫn đều đặn như dòng đời ngày ngày trôi. Trong mỗi chúng ta ai cũng có một khoảng lặng, nó nằm sâu đâu đó tận đáy lòng mình, bị những lo toan hàng ngày của cuộc sống hối hả lấp đi.

Chỉ khi gặp lại những kỉ niệm đẹp, những điều tưởng chừng bình dị nhưng lại có ý nghĩa sâu sắc với ta, nó mới trỗi dậy, mới ào ạt, vỡ tung và trào dâng mãnh liệt, khó tả. Love is blue đã đánh thức tôi và cho tôi cái cảm giác đó! Nó còn thoảng qua một cảm giác là lạ, kì kì: Tình yêu màu xanh - như tiêu đề của bản nhạc!

Tôi chưa yêu, cũng chưa đủ lớn để cảm nhận thế nào là tình yêu, nhưng tôi hiểu tình yêu đẹp và ấm áp lắm! ...“. Ta còn em, một màu xanh thời gian... từng chiều mái tóc em bay... chợt nhoà, chợt hiện...” - tôi nhớ đến lời của Trịnh Công Sơn. ... Rồi bản nhạc kết thúc. Và bất chợt tôi nhớ đến bạn.

Tôi nhớ đến ngày xưa, trước khi bạn cùng gia đình chuyển đi sống ở một nơi khác, hai đứa nhóc vẫn chơi đùa và chẳng có suy nghĩ gì cả. Bẵng đi gần 8 năm. Tôi gặp lại bạn hết sức tình cờ, khi cả hai đứa đã lớn và nhiều đổi khác. Bạn vẫn thân mật với tôi, cũng cho tôi cái cảm giác vừa lạ, vừa quen như khi tôi gặp lại Love is blue vậy!


Tôi mỉm cười nhận ra cuộc sống có khá nhiều điều thú vị, tuy không phải hoàn toàn. Gần như ngay sau đó bạn lại rời khỏi tôi một lần nữa, đến một phương trời khác xa hơn... rất xa.

Ngày bạn đi, tôi ngắm nhìn bạn thật lâu, như mong muốn lưu giữ những hình ảnh của bạn trong trí óc, dù tôi biết rằng bạn đã có một vị trí đặc biệt trong trái tim tôi rồi! Tôi không buồn.

Cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn như nó phải thế, nhưng tôi tin rằng cái gì đã qua thì sẽ không hoàn toàn biến mất , không phũ phàng như dòng cát thời gian mà cũng không hiện hữu. Nó chỉ nằm đâu đó sâu trong đáy lòng, và chờ một ngày được thức dậy để trào dâng. Bạn có tin điều đó không?



  • Hunter[Sic]
Bài hát: Love Is Blue
Viết bởi: Blackburn, P. Cour, & A. Popp,

Blue, blue, my world is blue
Blue is my world since I'm without you
Grey, grey, my life is grey
Cold is my heart since you went away

Red, red, my eyes are red
Cryin for you alone in my bed
Green, green, my jealous heart
I doubted you and now we're apart

When we met how the bright sun shone
Then love died, now the rainbow is gone

Black, black, the nights I've known
Longing for you so lost and alone
Gone, gone, the love we knew
Blue is my world since I'm without you

TẶNG BÁC VINH CẢ MỘT MÙA THU VÀNG

Em đến bên đời,hoa vàng một đoá
Một thoáng hương bay,bên trời phố hạ..


Mỗi lần chợt nghe, tôi lại mơ đến cả một khoảng trời vào thu với rực rỡ sắc vàng. Màu vàng của nắng, của hoa và của những tà áo thấp thoáng trên đường. Ở đó có một con phố còn vương chút gì mùa hạ. Hạ ấm áp, vồn vã của niềm vui mới chớm khi người ta tình cờ gặp nhau, quen nhau. Nhưng hạ trong âm hưởng mùa thu, một chút gì ấy không đủ để níu chân người, mà mau phai mờ, tàn tạ như cảm giác chia ly..


"Nào dễ chóng phai trong lòng nỗi nhớ
Ngày tháng trôi qua, cơn đau mịt mù... "


Tôi sợ cái cảm giác này, cảm giác của người ở lại, khi mà chỉ thấy "đời như vô tận, một mình tôi về với tôi"...

"Em đến nơi này, bao điều chưa nói
Lặng lẽ chia xa, sao lòng quá vội
Một cõi bao la, ta về ngậm ngùi
Em cười đâu đó, trong lòng phố xá đông vui "


Tưởng như hồn mình là trống rỗng và thinh không, bỗng bật lên tiếng cười quen lắm, ở đâu đó trên phố hạ xưa.

"Em đến nơi này, vui buồn đi nhé
Đời sẽ trôi xuôi, qua ghềnh qua suối
Một vết thương thôi, riêng cho một người..."


Phải, dù có thế nào đời cũng sẽ trôi xuôi, qua những nỗi đau, qua những cơn say và rồi chìm vào giấc ngủ yên. Nhưng chỉ riêng cho mình một vết thương, có khắc nghiệt quá không?

"Xin cho bốn mùa, đất trời lặng gió
Đường trần em đi, hoa vàng mấy độ
Những đường cỏ lá, từng giọt sương thu… yêu em thật thà"


Lời nguyện cầu chân thành, dù nhỏ bé nhưng chẳng thể làm gì hơn thế. Mong muốn gì đây khi không để cho mình? Giản đơn thôi, chỉ là mong sao trên quãng đường em đi, đất trời luôn lặng gió, cả lá cỏ ven đường hay giọt sương thu cũng biết yêu em. Chợt nhận ra niềm hạnh phúc lớn lao khi có cùng cảm xúc với ông, như thấy mình thoáng đâu đó trong câu hát của ông và cả trong lời ông nói “....khi tôi yêu cuộc đời ngào ngạt hương hoa này, thì đồng thời tôi cũng yêu luôn cả quãng đời mà tôi đánh mất...”. Tôi cứ thắc mắc, nếu trong cao xanh của mùa thu, sắc vàng kia hẳn phải là hoa cúc. Vậy trên con phố mùa hạ, biết có loài hoa nào vàng rực rỡ thế không? Còn chăng, hoa vàng xưa và phố hạ ngày xưa...

( Nguồn: Internet)

  • Nhacvietplus tổng hợp

Hoa vàng mấy độ
Nhạc sỹ:
Trịnh Công Sơn

Em đến bên đời hoa vàng một đóa
Một thoáng hương bay bên trời phố hạ.
Nào có ai hay ta gặp tình cờ
Nhưng là cơn gió em còn cứ mãi bay đi

Em đến bên đời hoa vàng rực rỡ
Nào dễ chóng phai trong lòng nỗi nhớ
Ngày tháng trôi qua cơn đau mịt mù

Xin cho bốn mùa
Đất trời lặng gió
Đường trần em đi
Hoa vàng mấy độ
Những đường cỏ lá
Từng giọt sương thu
Yêu em thật thà

Em đến nơi này bao điều chưa nói
Lặng lẽ chia xa sao lòng quá vội
Một cõi bao la ta về ngậm ngùi
Em cười đâu đó trong lòng phố xá đông vui

Em đến nơi này vui buồn đi nhé
Đời sẽ trôi xuôi qua ghềnh qua suối
Một vết thương thôi riêng cho một người

Tầu điện ngầm

Tôi cùng mẹ và Vốp-ca lên Mát-xcơ-va thăm dì Ô-lia. Ngay ngày đầu tiên, mẹ và dì đi cửa hàng, để tôi và Vốp-ca ở nhà, đưa cho chúng tôi một quyển an-bom cũ đầy ảnh để xem! Xem đi xem lại đến phát chán.

Vốp-ca nói:

- Chúng mình làm sao xem được Mát-xcơ-va nếu cứ ngồi nhà cả ngày thế này.

Chúng tôi đứng nhìn qua cửa sổ. Phía đối diện là ga tầu điện ngầm.

Tôi bảo:

- Chúng mình vào tầu điện ngầm dạo mấy vòng chơi đi.

Đến ga, chúng tôi mua vé, bắt đầu chuyến đi dưới lòng đất. Lúc đầu quả là hơi hoảng, sau thấy chẳng sao, lại còn thú vị nữa.

Đi qua hai ga, chúng tôi ra khỏi toa. “Nhìn ngó nhà ga một tý rồi quay về”, tôi nghĩ.

Chúng tôi ngắm nghía nhà ga. ở đằng kia chiếc thang cuốn đang hoạt động. Dòng người đứng trên thang máy lên lên, xuống xuống. Chẳng cần phải bước chân, cứ đứng im cho thang máy chở đi.

Đứng trên thang máy lên xuống một lúc, chúng tôi lại lên tầu để quay về. Qua hai ga, ra khỏi toa nhìn quanh, thì ra không phải là ga đối diện với nhà dì.

- Có thể chúng mình đi không đúng hướng, Vốp-ca nói.

Chúng tôi ngồi vào đoàn tầu khác, chạy theo hướng ngược lại. Tới bến, lại vẫn không phải, chúng tôi bắt đầu thấy sợ.

- Hay mình hỏi thăm người nào xem. Vốp-ca đề nghị.

- Cậu sẽ hỏi thế nào? Cậu có biết chúng mình lên tầu ở ga nào không?.

- Không, còn cậu?

- Tớ cũng không biết.

- Thế này, bọn mình lên tầu thử đi qua các ga, biết đâu chẳng tìm ra. Vốp-ca nói.

Chúng tôi thử đi qua các ga. Đi mãi, đi mãi, đến chóng mặt. Vốp-ca phụng phịu:

- Chúng mình đi khỏi đây thôi.

- Biết đi đâu bây giờ?

- Đi đâu cũng được. Tớ muốn lên trên.

- Cậu sẽ làm gì ở trên ấy.

- Tớ không muốn ở dưới lòng đất nữa.

Nó bắt đầu nức nở.

- Đừng có khóc, tôi bảo. Họ bắt chúng mình vào công an bây giờ.

- Kệ cho họ bắt, hu!hu!hu!

- Thì đi, thì đi, tôi nói! Đừng nức nở nữa. Kìa, chú công an đang nhìn bọn mình đấy.

Tôi nắm tay nó, kéo nhanh ra chỗ cầu thang. Chúng tôi đi lên phía trên. “Nó đưa mình đi đâu đây, tôi thầm nghĩ. Chuyện gì sẽ xẩy ra với chúng tôi nữa”.

Bỗng chúng tôi nhìn thấy mẹ và dì Ô-li-a ở thang bên kia, ngược chiều với chúng tôi, đang đi xuống. Tôi kêu lên:

- Mẹ!

Họ cũng nhìn thấy chúng tôi, và quát:

- Chúng mày làm gì ở đây, hả?

Chúng tôi gào to.

- Chúng con không sao mò ra được đường về.

Không gào được gì thêm, thang cuốn đưa chúng tôi lên trên, còn họ thì xuống dưới. Lên đến bên trên, chúng tôi vội vàng sang thang cuốn bên kia để đi xuống, đuổi theo họ. Bỗng lại thấy họ đang ngược chiều đi lên. Nhìn thấy chúng tôi, họ quát:

- Lại đi đâu nữa, sao không đợi mẹ với dì một lát.

- Chúng con đuổi theo mẹ.

Xuống đến bên dưới, tôi bảo Vốp-ca:

- Chúng mình đợi một lát. Họ sẽ đến bây giờ.

Đợi mãi, đợi mãi, chẳng thấy ai.

- Có lẽ họ lại đợi bọn mình trên kia, Vốp-ca nói. Mình lên nào!

Vừa mới đi một tý, lại thấy họ đứng trên thang cuốn ngược chiều. Họ kêu lên:

- Dì với mẹ đợi chúng mày mãi.

Mọi người chung quanh thấy chúng tôi như vậy không nhịn được cười.

Chúng tôi đã lên hết cầu thang và một lần nữa lại vội vàng đi xuống. Cuối cùng thì cũng gặp nhau. Đầu tiên mẹ cằn nhằn chúng tôi về tội đi khỏi nhà mà không hỏi ai, chúng tôi thì thao thao kể mình bị mất phương hướng, không tìm lại được nhà ga thế nào.

- Không hiểu nổi. Sao lại mất phương hướng không tìm được nhà ga. ở đây ấy à, hàng ngày dì phải đi lại, chưa bao giờ bị như thế nhé. Thôi nào, chúng ta về nhà.

Cuối cùng , chúng tôi lên tầu quay về.

- Ôi, hai cái đứa này, đúng là quê một cục. Dì Ô-li-a nói. Người ta đi đường quang mình đâm quàng bụi rậm. Ai lại lạc đường giữa lòng bàn tay bao giờ. Còn không tìm ra nhà ga của mình nữa chứ.

Cứ thế, Di Ô-li-a trêu chọc chúng tôi suốt dọc đường.

Chúng tôi đã tới ga. Dì Ô-li-a nhìn quanh, và nói.

- Khỉ thật! Các cháu làm cho dì đâm ra lú lẫn. Mình cần xuống ga A- rơ-bát lại đi đến ga Cu-ra-xki. Mình lên nhầm tầu mất rồi.

Chúng tôi lại lên tầu, đi ngược lại. Lần này dì Ô-li-a không trêu chọc chúng tôi, và cũng không gọi chúng tôi là lũ “Quê một cục” nữa.

Thứ Sáu, 14 tháng 9, 2007

Phở ở đâu ngon?

Người Việt sinh sống ở đâu, thì ở đó có món phở, vùng nào nấu phở ngon ? và chuẩn nhất ? "...Chỉ có phở nấu theo kiểu Bắc, hay chính xác hơn nữa là theo kiểu Hà Nội, mới đáng gọi là phở. Các hiệu phở ở đất Sài Gòn muốn bán được, cứ là phải treo biển “phở Hà Nội”. Và cùng là phở Hà Nội, thì chỉ có phở ở Hà Nội là ngon nhất, không đâu sánh bằng..."Tại sao vậy nhỉ ?
  Sưu tầm một số bài nói về món phở truyền thống của người Việt để mọi người cùng tham khảo. Xin đọc ở đây

Thứ Tư, 12 tháng 9, 2007

Su-Rích ở chỗ ông bà.

Mùa hè, tôi cùng Su- rích ở với ông bà. Su-rích là em trai tôi. Nó chưa đi học, còn tôi đã vào lớp một. Bực một điều là chẳng bao giờ nó chịu nghe lời tôi. Cũng chỉ là chuyện vặt, chẳng cần! Lúc mới đến, và đến tận bây giờ cũng vậy, chúng tôi lục lọi khắp sân, mò mẫm khắp nhà kho, và cả căn nhà lều. Tôi tìm thấy một chiếc bình thuỷ tinh dính đầy mứt, một hộp sắt tròn đựng xi đánh giầy. Su-rích thì tìm được một tay nắm cửa cũ bằng gỗ, một chiếc vỏ giầy bên chân phải bằng cao su to tướng (dùng để xỏ giầy vào, đi trời mưa). Thế rồi chúng tôi suýt đánh nhau trong nhà lều vì chiếc cần câu. Tôi nhìn thấy trước, và bảo.

- Pập, pập! Đây là của anh!

Su- rích cũng nhìn thấy, hét toáng lên.

- Pập, pập! Của em! Pập – pập ! của em!

Tôi nắm lấy chiếc cần câu, còn nó cũng giữ chặt, cố giằng. Tôi cáu tiết giẩy nó một cái, nó bắn sang một bên, loạng choạng suýt ngã. Nó nói:

- Anh nghĩ sao? Em rất muốn có chiếc cần câu này. Em thì có chiếc vỏ giầy bằng cao su…

- Vậy thì cứ việc ôm lấy cái vỏ giầy ấy, tôi nói. Còn chiếc cần câu đừng hòng lấy khỏi tay anh.

Tôi tìm được cái xẻng trong nhà kho, bỏ ra ngoài đào giun để đi câu cá. Su-rích tìm đến với bà, hỏi xin diêm.

- Cháu lấy diêm làm gì, bà hỏi.

- Cháu nhóm lửa ngoài sân, đốt cái vỏ giầy cho nó chẩy ra, cháu lấy cao su .

- Cháu nghĩa ra cái trò gì vậy? Bà phẩy tay, cháu sẽ thiêu trụi cả nhà bằng cái trò nghịch ngợm của cháu mất. Không được, thằng quỷ sứ ạ, cháu đừng hỏi nữa. Chơi gì không chơi, lại nghịch lửa. Thôi, bà không nghe cháu nữa.

Su-rích lấy dây, buộc một đầu vào tay nắm cửa cũ, một đầu vào chiếc vỏ giầy bằng cao su. Nó cầm cái tay nắm cửa kéo chiếc vỏ giầy cao su ở phía sau, đi quanh sân. Nó đi tới đâu, cái vỏ giầy cao su đi tới đó.

Nó đến gần tôi, thấy tôi đang đào giun, nó bảo:

- Thôi, đừng cố làm gì. dù sao cũng chẳng con cá nào cắn câu đâu!

- Vì sao? Tôi hỏi.

- Em đã yểm bùa cho lũ cá rồi.

- Cứ việc mà niệm thần chú, yểm bùa, tôi nói. Niệm đi cho khoẻ.

Tôi đã kiếm đủ giun, cho vào hộp, vác cần câu ra ao.

Ao ở ngay sâu sân, giáp đầu ruộng rau của nông trường. Tôi mắc mồi vào lưỡi câu, ngồi xuống bờ ao và thả câu. Đang ngồi theo dõi cái phao, Su-rích lẻn đến sau lưng tôi hét to đến rát họng:

- Phù phép đi bà!

Phù phép đi ông!

Phù phép đi gấu xám!

Tôi cố nhịn, không nói gì. Còn lạ gì nó nữa, bây giờ tôi mà nói một câu, nó sẽ càng làm già hơn.

Thế rồi nó quăng chiếc vỏ giầy cao su ra giữa ao, cầm cái tay nắm cửa giật dây cho cái vỏ giầy cao su lắc qua lắc lại. Sau đó nó lại nghĩ ra một trò mới. Quăng chiếc vỏ giầy ra xã hơn, nhặt đá ném cho chìm xuống, rồi lại cầm dây kéo lên.

Lúc đầu tôi còn cố nhịn, sau không thể chịu được nữa, tôi quát:

- Cút ngay khỏi đây! Mày làm cá sợ chạy hết rồi.

- Dù sao cũng không câu được. Cá bị yểm bùa phép hết rồi.

Nó lại ném cái vỏ giầy cao su ra giữa ao. Tôi chồm dậy, vớ cái gậy, xông vào nó. Nó lùi dần, kéo theo chiếc vỏ giầy quậy dập dờn dưới nước theo từng bước chân xa dần của nó.

Tôi quay lại bờ ao, ngồi xuống câu tiếp. Câu mãi, câu mãi, mặt trời đã lên cao, mà tôi cứ ngồi theo dõi cái phao. Chẳng có con cá nào đụng vào mồi câu, mặc tôi muốn thử thế nào thì thử. Tôi cáu Su-rích lắm. Túm được, tôi sẽ cho nó một trận. Chẳng phải tôi tin vào cái chuyện yểm bùa, phù phép của nó. Nhưng tôi biết, nếu về tay không, sẽ bị nó cười cho. Cố thử mọi cách, hết quăng mồi ra xa, lại kéo vào gần bờ, hết thả nông, đến thả sâu hơn, vẫn chẳng ăn thua.

Đói quá, tôi muốn về

nhà ăn trưa. Đang đi bỗng nghe tiéng gõ vào vào cánh cổng: chát chát, cốp cốp. Lại gần nhìn, thì ra Su-rích. Nó kiếm đâu ra chiếc búa, mấy cái đinh, và đang đóng chiếc tay nắm cửa cũ vào cánh cổng ngách.

- Em đóng thế để làm gì? Tôi hỏi.

Thấy tôi, nó khoái chí lắm:

- Hì -hì - hì, ông thợ câu đã về, chắc nhiều cá lắm nhỉ?

Tôi nói:

- Sao mày lại đóng cái tay nắm ấy vào cánh cửa. Đã có một cái rồi mà.

- Chẳng sao cả - cứ để cả hai! Ngộ nhỡ đột nhiện một cái bị gẫy, có cái khác ngay.

Đóng xong cái tay nắm, nó vẫn còn một chiếc đinh. Làm gì với chiếc đinh này? Nó định cứ thế đóng vào cái cổng chơi, nhưng sau đó chợt nghĩ ra. Nó ướm chiếc vỏ giầy cao su vào cánh cổng rồi đóng đinh chặt vào.

- Thế cái này để làm gì?

- Chẳng làm gì?

- Chẳng làm gì, đồ ngốc, tôi nói.

Chợt chúng tôi nhìn thấy ông đi làm về. Su-rích sợ hãi. nó định che chiếc vỏ giầy cao su đi, nhưng che không kín. Nó liền đứng giậy, dang hai tay, tựa lưng vào chiếc vỏ giầy.

Ông đi đến, tươi cười:

- ồ!đúng là những anh chàng cừ khôi, vừa mới đến, đã làm việc ngay. Ai nghĩ ra cách đóng cái tay nắm thứ hai vào cánh cổng thế?

- Đấy là Su-rích ạ, tôi nói.

Ông gật gù:

- Chứ sao, bây giờ chúng ta có hai tay nắm cửa, một trên cao, một dưới thấp, Ngộ nhỡ có một người thấp bé tới, không với được cái trên cao, đã có cái dưới thấp rồi.

Và ông nhìn thấy chiếc vỏ giầy cao su:

Còn đây là cái gì?

Tôi cười thầm, chắc bây giờ, tôi nghĩ, Su-rích sẽ được một trận. Nó đỏ cả mặt, chưa biết trả lời thế nào.

Ông bảo:

- Hay đấy! Cái này có thể dùng thay thùng thư. Chú bưu điện đến, thấy nhà không có ai, bỏ thư vào chiếc vỏ giầy cao su này, rồi di tiếp. Thật là có sáng kiến.

- Đấy là do cháu nghĩ ra, Su-rích chộp ngay cơ hội.

- Chẳng lẽ lại là cháu.

- Cháu thề danh dự!

- Giỏi lắm, ông dang hai tay, nói.

Trong bữa ăn trưa, ông kể cho bà nghe về chiếc vỏ giầy.

- Bà không biết thằng bé sáng dạ như thế nào đâu. Nó nghĩ ra được cái gì, bà biết không? Đóng cái vỏ giầy cao su vào cánh cổng, hay chưa? Đã lâu, tôi định đóng thùng thư vào đây. Thế mà tôi không nghĩ ra. Dùng cái vỏ giầy ấy có phải tiện không.

Thôi, được rồi!Bà tủm tỉm cười. Tôi đã mua về một chiếc thùng thư, nhưng thôi, cứ treo cái vỏ giầy ấy cũng được rồi.

Ăn trưa xong, Su-rích chạy ra vườn, ông nói:

- Thế là vừa đến đây, Su-rích đã trổ tài rồi. Còn cháu, cũng phải làm cái gì chứ, mạnh dạn lên, cho ông bà vui.

- Cháu đi câu cá, tôi nói, nhưng cá không cắn câu ông ạ.

- Thế cháu câu ở đâu?

- Ngoài ao ạ.

- úi chà, ông kéo dài giọng, cá gì ở đây? Cái ao ấy người ta mới đào. Cả ếch còn chưa đến ở, nói gì cá. Con bồ câu nhỏ của ông ạ, cố đi xa hơn, ra con sông nhỏ, ở chỗ có chiếc cầu, nước chẩy nhanh mới có cá. Đến đấy mà câu.

Ông đi làm. Tôi cầm cần câu nói với Su-rích.

- Nào, chúng mình cùng ra sông, câu chung.

- Ha – ha! Sợ rồi chứ gì? Nó nói. Bây giờ mới hạ mình thương lượng.

- Sao anh lại phải hạ mình thương lượng?

- Để em không niệm thần chú nữa.

- Thế thì cứ việc, xin mời, Tôi nói.

Tôi nhặt hộp giun, cái bình mứt để đựng cá, đi ra sông.

Su-rích nhẩn nha đi phía sau.

Tới sông, tôi đứng lại gần chiếc cầu, nơi nước chảy nhanh, bắt đầu thả câu.

Su-rích nhẩy nhót quanh tôi, luôn mồm lẩm nhẩm.

- Phù phép đi Bà!

- Phù phép đi Ông!

- Phù phép đi gấu xám!

Dừng giây lát lấy hơi, rồi lại tiếp tục, phù phép đi, phù phép đi …

Chợt cá cắn câu, tôi giật vội. Con cá bị kéo bật lên trên không, vùng vẫy tuột khỏi lưỡi câu, rơi xuống giẫy đành đạch ngay mép bờ.

Su-rích hét lên.

- Tóm lấy nó.

Nó nhẩy về phía con cá, định chộp, con cá rạch dọc bờ. Nó nhào tới úp thẳng bụng lên con cá mà không làm sao bắt được. Thiếu chút nữa con cá quẫy được xuống nước. Cuối cùng Su-rích cũng tóm được con cá. Tôi múc nước vào cái bình. Su-rích thả con cá vào, và đứng ngắm.

- Đây là cá rô, nó nói, thề rằng đây chính là cá rô, nhìn xem, những đường sọc của nó kìa! Bập, bập, nó là của em.

- ừ, thì của em – Chúng mình sẽ còn câu được nhiều!

Ngày hôm đó chúng tôi câu “sát” lắm. Được sáu con rô, bốn con bống, thậm chí còn được một con cá diếc.

Trên đường về, Su-rích ôm chiếc bình đựng cá. Nó giữ chặt, không chịu đưa cho tôi. Nó rất vui, quê cả bực mình khi thấy chiếc vỏ giầy cao su của nó đã biến mất, thay vào đó là một thùng thư mới màu xanh, trên cánh cổng ngách.

- Thôi, cũng được. Nó nói. Theo em, chiếc thùng này còn tốt hơn chiếc vỏ giầy cao su. Nó làm bộ phẩy tay, chạy nhanh đem cá vào khoe Bà. Bà khen chúng tôi. Tôi bảo nó:

- Đấy, thấy chưa, thế mà em cứ ra sức niệm thần chú. Thần chú với bùa của em chẳng làm được tích sự gì. Anh chẳng tin vào thần chú với bùa ngải.

- Quên đi, Thế anh nghĩ em cũng tin à? Chỉ có những người kém hiểu biết mới tin thôi, à mà cả các cụ già khốt-ta-bít nữa.

Nói câu này, nó định chọc cho bà cười, vì tuy già rồi, nhưng bà cũng không tin vào những chuyện mê tín.

Chuyện những con chim sẻ

Dưới ô cửa sổ của tôi là mảnh vườn nhỏ có hàng rào thấp bằng gang bao quanh. Mùa đông người quét sân thường vun tuyết thành đống bên hàng rào khi quét dọn. Còn tôi thích ném những vụn bánh mỳ qua cửa thông gió cho lũ chim sẻ. Bọn sẻ nhìn thấy bữa tiệc liền từ khắp mọi phía bay tới, xà xuống đậu trên cành cây ngay ngoài cửa sổ. Chúng đậu rất lâu, sợ sệt nhìn ngó chung quanh, không chịu xà xuống đất. Chắc hẳn những người qua lại trên đường làm chúng không yên tâm.
Và rồi một chú sẻ lấy hết can đảm bay xuống, đậu trên tuyết, bắt đầu mổ mổ cái mỏ bé xíu vào vụn bánh mỳ. Một con khác thấy vậy sà xuống theo. Rồi con thứ ba, thứ tư… Chẳng mấy chốc, gần như cả đàn sẻ đã ở dưới tuyết, chén ngon lành những vụn bánh. Chẳng con nào thèm để ý đến những người qua lại trên đường nữa.
Theo tập tính của mình, lũ chim sẻ sống với nhau thành đàn, rất hoà thuận. Chúng thích ăn với nhau, như người ta vẫn nói, trên cùng một bàn ăn. Kìa, một chú sẻ sán đến gần một mẩu bánh mỳ, ngậm mỏ vào nó từ phía dưới. Một con khác ngẩng cao đầu, ưỡn ngực kiêu hãnh như một chú ngựa chiến, mổ vào chính mẩu bánh đó từ phía trên. Chợt nhận ra mình đang quấy nhiễu bạn mình, nó liền bỏ sang mẩu bánh khác nằm cách đó không xa “Những mẩu vụn bánh này rất nhiều, đủ cho tất cả mọi người. Bằng dáng điệu của mình, nó muốn nói cho cả đàn biết. Chẳng việc gì phải tranh nhau!”.
Tất nhiên chẳng phải con nào trong đàn cũng có tình đồng loại như nó. Có những con cắp mẩu bánh mỳ lẩn sang một phía rồi mới mổ ăn, để không bị ai quấy rầy.
Với những con sẻ có thói ích kỷ như vậy, không thể không chê cười. Như con sẻ kia, vừa moi dưới tuyết lên được một mẩu bánh mỳ khá to, cố tha ra xa những con khác, đang định ăn, thì đột nhiên một con khác từ cạnh sườn bất ngờ bay tới, cướp mẩu bánh, bay lên cao. Nó cười mũi, nhìn con sẻ bất hạnh đang kinh ngạc, há hốc mỏ, đứng phía dưới.
Đã từ lâu, tôi nhận ra con sẻ chuyên cướp mồi của bạn này, và đặt tên cho nó là A-phôn-ca, và họ nó là Vrét-nưi, tức là đồ có hại. Con A- phôn-ca Vrét-nưi này chẳng bao giờ ăn chung với cả đàn. Nó thường bay tới khi không ai để ý, cướp mẩu bánh to nhất ngay trước mũi một con sẻ nào đó, bay về chỗ của mình dưới mái hiên. Một lần, nó ngậm ở mỏ một mẩu bánh to cứ kéo đầu của nó chúc xuống, nó cứ thế chổng ngược đuôi lên trời mà tha mẩu bánh bay về. Nó vỗ cánh trong không khí mạnh kinh người, tiếng phành phạch lọt vào phòng tôi xuyên qua cả hai lần cửa kính.
Tôi cảm thấy rồi đến lúc nào đó, thế nào con A-phôn-ca Vrét-nưi này cũng lộn cổ xuống đất vì một mẩu bánh nặng quá sức. Tôi cố tình ném cho nó một mẩu bánh thật to, để xem lòng tham sẽ dẫn nó đến đâu.
ở trong đàn còn có một con sẻ khoẻ mạnh là một kẻ hay gây sự đánh nhau. Con hay gây sự này bay xà xuống một con sẻ hiền lành nào đó, như kiểu bổ nhào của diều hâu, sô bật nó sang một bên, cướp mẩu bánh, rồi lại chồm sang con khác cướp bánh, rồi lại… cứ thế tiếp tục. Hoặc do bị lòng ganh tỵ dầy vò, hoặc do những mẩu bánh của người khác ngọt ngào hơn, mà lúc nào nó cũng chỉ làm một việc: sấn sổ cướp bánh của những con khác. Cuối cùng, rồi nó cũng gặp một kẻ hay gây sự khác, hay đơn giản hơn, gặp một con sẻ hiền lành, không cướp của người, nhưng cũng không để ai cướp của mình. Thế là trận ẩu đả giữa hai bên xẩy ra. Chúng nhẩy lên, đạp vào ngực nhau, y như những chú gà trống. Kẻ gây sự cố ra sức mổ, đạp, làm sao cho đối thủ bị đau hơn. Nhưng đối thủ không chùn bước. Cứ thế, chúng quần nhau, quên cả chuyện bánh mỳ. Với những con sẻ gây sự như vậy thì không chê cười sao được.
Ăn hết những vụn bánh, lũ chim sẻ bay lên, đậu tản mát trên các cành cây, chúng nghỉ ngơi, “rửa mồm” bằng cách quyệt quyệt mỏ vào cành. Lúc đã no nê, trông chúng hả hê lắm.
Một bận, tôi quyết định dành cho chúng một món quà bất ngờ. Tôi nghĩ “Ôi, những con sẻ đáng thương, cứ phải nhảy nhót trên tuyết như thế thì tê cóng hết chân. Thôi, thì cứ việc ở tại chỗ mà sơi tiệc, không phải xuống khỏi cây làm gì “.
Tôi đội mũ, mặc áo bành tô đi ra mảnh vườn nhỏ, và gài lên các cành cây những mẩu ruột bánh mỳ.
“Nhất định các chủ sẻ sẽ rất vui mừng”, tôi nghĩ.
Tôi quay vào nhà đợi. Phải cả tiếng đồng hồ dán mắt vào ô cửa sổ mà chẳng thấy bóng dáng một con sẻ nào bay xuống.
“Sao thế nhỉ, tôi nghĩ. Chẳng lẽ chúng không nhìn thấy?”.
Bỗng một chú sẻ với bộ lông sơ sác đến kỳ lạ từ trên cao bay đến, đậu xuống cành cây, ngay cạnh một mẩu ruột bánh mỳ. Đuôi nó ngắn ngủn, y như vừa bị làm lông, nổi cục sần sùi. Trên lưng một chiếc lông gẫy chọc thẳng lên trời.
“Cái thằng khùng nào bay đến với mình thế này, tôi nghĩ. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy con nào như vậy. Có lẽ nó vừa thoát khỏi nanh vuốt một con mèo nào đó vồ trượt nó, hoặc vừa trải qua một trận quyết đấu với con chim sẻ khác”.
Trong khi đó, “Thằng khùng” đậu trên cành, không thèm để ý đến miếng ruột bánh. Rồi nó tình cờ nhìn thấy, sợ hãi chớp chớp mắt, hàm dưới của nó trễ xuống, các ngón chân không bám được vào cành nữa, và “Thằng khùng” rơi thẳng xuống như bị trúng đạn. Rơi được nửa chừng nó bất ngờ rùng mình, đập cánh bay lên cao dần, vạch một đường chéo qua đường, bay đi đâu mất.
Tôi đã cười phá lên, hiểu ra rằng con chim sẻ ngốc ngếch này bị hoảng khi nhìn thấy miếng ruột bánh ghim trên cành cây. Có thể nó không phát hiện những miếng ruột bánh khác ghim chung quanh trên các cành cây, và đậu xuống theo thói quen. Rồi sau đó nhìn thấy ngay bên cạnh mình vật gì đó lạ lùng, chưa bao giờ thấy, vì vậy hoảng hốt, rơi khỏi cành cây. Thì rõ là từ xưa đến nay, nó chưa từng nhìn thấy những mẩu bánh mỳ ở trên cây như vậy bao giờ.
Những con khác, có khả năng quan sát lâu hơn, thì đã thấy ngay trên cành cây có gì đó khác thường, không giống như mọi khi, và thế là không dám đậu xuống. Có lẽ chúng không thể đoán ra là những mẩu ruột bánh mỳ.
Những con chim sẻ, những con chim nhẩy lách nhách vui vẻ ấy tuy bé bỏng, nhưng rất cẩn thận, và tất cả những gì không nhận biết được rõ ràng đều làm chúng sợ hãi.
Tất nhiên, tôi không biết lũ chim sẻ nghĩ gì, có thể chúng cho rằng đây là con vật nguy hiểm mà chúng chưa từng gặp. Cho đến tận bây giờ, khi những mẩu bánh mỳ còn ghim trên cành, chẳng con sẻ nào dám bén mảng đến gần.
Nhưng tôi gỡ bỏ những mẩu bánh trên các cành cây đi, chúng lại bay đến, chẳng sợ hãi gì nữa.
Từ đó, chưa bao giờ tôi gặp lại “Thằng khùng”. Chắc nó là một con sẻ thần kinh bay lạc, một con sẻ của đường phố khác.
Nói chung thế giới chim sẻ làm tôi thích thú. Chúng nó “chích, chích” nhẩy nhót vui nhộn, thật dễ thương. Tôi suy nghĩ rất lâu, tại sao chúng ta lại chê cười chúng. Sau đó hiểu ra rằng nếu đặt mình vào chỗ của chúng, thì cũng như đặt vào giữa những con người vậy. Chúng ta vẫn thường chê cười những người chỉ biết chăm lo cho bản thân mình, không nghĩ đến người khác. Chê cười những kẻ thô lỗ vụng về, những người hay sinh sự, những thằng ngốc không tôn trọng ai ngoài bản thân, không biết hoà mình sống với mọi người. Chúng ta chê cười những kẻ tham lam, tư lợi, luôn cố gắng vơ vét cho riêng mình. Chê cười những kẻ tự cao tự đại, luôn cho rằng mình tốt hơn tất cả, còn những người khác thì chẳng ra gì. Chúng ta cười chê những kẻ dại khờ, nhu nhược, đớn hèn, luôn sợ hãi mọi thứ tầm phào.
Một người quen của tôi (một giáo sư rất thông thái) bảo tôi: Chúng ta cười chê lũ chim sẻ khi nhận ra chúng có cái gì đó giống như người.
Nhưng tôi lại cảm thấy ngược lại: Chúng ta cười chê những con người, khi chúng ta nhận thấy họ có cái gì đó giống như lũ chim sẻ.
Lúc nào bạn có thời gian rảnh rỗi, hãy thử suy nghĩ điều này.